VKSND TP Đà Nẵng phối hợp tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm vụ án dân sự

VKSND TP Đà Nẵng vừa phối hợp với TAND TP Đà Nẵng đưa ra xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự về tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản, phân quyền sử dụng đất để thi hành án giữa nguyên đơn Nguyễn P. và bị đơn Nguyễn A. (cùng trú TP Đà Nẵng).

Đây là vụ án dân sự phức tạp, có nhiều quan hệ tranh chấp và nhiều người tham gia tố tụng với tư cách tố tụng khác nhau (như nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền,...). Kiểm sát viên đã lựa chọn vụ án phù hợp với các tiêu chí của phiên tòa rút kinh nghiệm được quy định tại hướng dẫn số 32/HD-VKSTC ngày 30/11/2018 của VKSND tối cao.

Theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự đã có hiệu lực pháp luật số 22/QĐST- DS ngày 26/5/2022 của TAND quận T (T.P Đà Nẵng), ông Nguyễn P. và ông Nguyễn A. thỏa thuận nội dung: “Đến ngày 18/8/2022, ông Nguyễn A. thanh toán dứt điểm toàn bộ số tiền 780.000.000 đồng cho ông Nguyễn P. Kể từ ngày 19/8/2022 cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng ông Nguyễn A. còn phải chịu lãi trên số nợ gốc theo mức lãi suất quy định tại Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án”.

 Phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án dân sự về tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản, phân quyền sử dụng đất để thi hành án.

Phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án dân sự về tranh chấp xác định phần quyền sở hữu tài sản, phân quyền sử dụng đất để thi hành án.

Mặc dù có tài sản chung với bà Dương Thị N. là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất tại thửa đất số 267, tờ bản đồ số 14 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH 622751 do Sở Tài nguyên và Môi trường TP Đà Nẵng cấp ngày 30/3/2017 đứng tên ông Nguyễn A. và bà Dương Thị Ng. Tuy nhiên, ông A. không tự nguyện thi hành án. Do đó, ông P. có đơn yêu cầu thi hành án đến Chi cục Thi hành án dân sự quận T. để ông cầu ông A. thực hiện nghĩa vụ theo quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên.

Quá trình thi hành án, cơ quan Thi hành án dân sự đã yêu cầu ông A, bà N. xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản thi hành án nhưng ông A và bà N. không thực hiện. Sau đó, cơ quan Thi hành án dân sự đã yêu cầu ông P. khởi kiện, yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của ông Nguyễn A. trong khối tài sản chung để thi hành án.

Vì vậy, ông P. đã khởi kiện đề nghị Tòa án xác định quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án ông Nguyễn A. trong khối tài sản chung với bà Dương Thị N. để thi hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 22/QĐST- DS ngày 26/5/2022 của TAND quận T.

Quá trình giải quyết sơ thẩm vụ án, ông A và bà N. đã được triệu tập hợp lệ nhưng không có bản tự khai, không tham gia tố tụng. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P, xác định ông A. được quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất là 1/2 trong khối tài sản chung với bà Dương Thị N. là có căn cứ phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 219 của Bộ luật dân sự, Điều 59 Luật Hôn nhân gia đình và Điều 74 của Luật Thi hành án dân sự. Sau khi nhận được bản án, bà N. (người có quyền, nghĩa vụ liên quan) đã kháng cáo bản án đề nghị xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Kiểm sát viên được phân công nghiên cứu vụ án đã nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ vụ án, tìm kiếm các tài liệu, chứng cứ cần thiết; kiểm sát chặt chẽ hoạt động tố tụng của Tòa án và các đương sự; tìm hiểu các văn bản pháp luật có liên quan để đưa ra hướng giải quyết phù hợp, chuẩn bị đề cương câu hỏi, dự thảo bài phát biểu cẩn thận và tỉ mỉ.

Qua nghiên cứu hồ sơ và kiểm sát xét xử tại phiên tòa, Kiểm sát viên nhận thấy, việc ông P. yêu cầu Tòa án xác định tài sản chung của ông A. với vợ là bà N. để làm căn cứ cho cơ quan Thi hành án dân sự tổ chức thi hành án là có căn cứ và Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định định ông A. (người phải thi hành án) được quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất là 1/2 trong khối tài sản chung với bà Dương Thị N. là có căn cứ phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 219 Bộ luật dân sự, Điều 59 Luật Hôn nhân gia đình và Điều 74 của Luật Thi hành án dân sự.

Sau khi nhận được bản án, bà N. (người có quyền, nghĩa vụ liên quan) đã kháng cáo bản án đề nghị xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Do đó, Kiểm sát viên đã căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS, đề nghị HĐXX không chấp nhận đơn kháng cáo của người có quyền, nghĩa vụ liên quan Dương Thị N; giữa nguyên bản án sơ thẩm của TAND quận T.

Sau khi tiến hành nghị án, HĐXX đã tuyên, chấp nhận đề nghị của VKS, không chấp nhận kháng cáo của bà N, giữ nguyên bản án của TAND quận T.

Kết thúc phiên tòa, Phòng 9 VKSND TP Đà Nẵng sẽ tổ chức họp để rút kinh nghiệm chung và nâng cao được trình độ, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, xử lý các tình huống tại phiên tòa, tích lũy kinh nghiệm cho bản thân trong công tác chuyên môn, nghiệp vụ.

Mạnh Huỳnh

Nguồn BVPL: https://baovephapluat.vn/cai-cach-tu-phap/thuc-tien-kinh-nghiem/vksnd-tp-da-nang-phoi-hop-to-chuc-phien-toa-rut-kinh-nghiem-vu-an-dan-su-157978.html